Theo tôi để trả lời một cách thấu đáo thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ quá khứ, từ lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc.
1. Người Việt trải qua hơn ngàn năm sống dưới chế độ quân chủ, nơi mà tất cả quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua, nhà vua chỉ trao quyền cai trị dân chúng cho một số ít quan lại hay số người thi đậu ít ỏi qua các kỳ thi hương, thi hội, thi đình vốn là những kỳ thi năm thì mười hoạ hay vài ba năm mới diễn ra một lần. Và sự đọc sách thánh hiền thời đó của tầng lớp học trò, sĩ tử không chú trọng vào việc mở mang trí thức, mà cốt để thi đậu làm quan bởi quan niệm "một người làm quan cả họ được nhờ”. Bởi vậy, học trò chỉ học cái thi cử cần. Dạy cũng chỉ dạy cái cần cho thi cử. Người học chỉ đọc những sách tóm tắt gọi là đại cương hoặc tất yếu chứ chưa bao giờ đọc chính văn hoặc toàn văn, học trò học thi theo các "bộ đề" thi (cũng được soạn thành sách) theo nội dung tối thiểu là thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi (nghìn bài thơ, trăm bài phú và 50 bài văn sách). Bởi vậy người học trò Nho giáo nhớ nhiều mà nghe ít, không có sáng kiến, không có óc sáng tác (thuật nhi bất tác), họ sống lệ thuộc vào các khuôn mẫu tư tưởng, khuôn mẫu lý tưởng của người xưa. Chính từ "triết lý giáo dục" đó mà dù Nho giáo tồn tại hơn nghìn năm mà lớp lớp các sĩ tử người Việt không thể sản sinh những nhà tư tưởng, những nhà bác học hay các trường phái học thuật - bởi tất cả cái đó cần sự sáng tạo, phá cách, thoát ra khỏi cái khuôn mẫu như cái vòng kim cô chụp lên cái đầu học trò, sĩ tử người Việt. Mặt khác, tầng lớp học trò trong xã hội Việt cổ truyền không nhiều, hơn nữa vài ba năm mới có một kỳ thi và việc thi đậu làm quan là rất khó khăn.
Hàng nghìn sĩ tử lều chõng lên kinh chỉ vài ba người trong số đó chiếm được bảng vàng, nên việc gửi con đến trường, mong có ngày con thi đậu làm quan trong nhiều trường hợp đã trở nên thiếu thực tế giữa lúc nhu cầu ăn mặc thúc bách hàng ngày. Vì thế có một kẻ sĩ đọc sách trong nhà nhiều khi không phải là một vinh dự mà là gánh nặng, họ là kẻ "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm" hoặc bị mang ra giễu cợt: "nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”.
Có thể nói "triết lý giáo dục" Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới “văn hoá đọc" của người Việt ngày nay. Vì nói như Ts. Đỗ Lai Thúy thì dù Nho giáo không còn nữa nhưng “ảnh hưởng của Nho giao ở phương diện tư duy, ở phương pháp tư tưởng thì còn lâu mới gột hết được, không chỉ bởi Nho giáo không cùng sinh với chế độ phong kiến nên không cùng chết với nó, mà kiểu tư duy Nho giáo đã đi vào vô thức, người Việt.
Trong thời kỳ phong kiến, các cơ sở ấn loát của Nhà nước phong kiến chủ yếu in sách giáo dục (Tứ thư, Ngũ kinh), kinh Phật. Các sách về y học, các khoa học khác không được in nhiều nếu không muốn nói là rất ít Sang thế kỷ XVII, với sự hưng khởi của đô thị Việt Nam, kinh tế hàng hoá manh nha hình thành thì nghề in cũng xuất hiện những cơ sở tư nhân, ban đầu là một số quan lại, trí thức bỏ tiền ra khắc ván in sách như Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Siêu, Bùi Huy Bích, Cao Xuân Dục… song tiêu biểu nhất là phường in Liễu Chàng (Hải Dương có tuổi thọ 211 tuổi (1683 – 1904). Phường in này đã cho khắc in nhiều bộ sách quan trọng và có giá trị: năm 1967 khắc in Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1972 khắc in Truyền kỳ mạn lục, năm 1714 khắc in Nam được thần hiệu của Tuệ Tĩnh… không nghi ngờ gì nữa, chính sự ra đời của nghề khắc mộc bản in sách (tương truyền ông tổ là Lương Như Hộc) và sự phát triển của các cơ sở in tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá tri thức và thúc đẩy “văn hóa đọc” của dân tộc. Đến nay tất cả những sách Hán Nôm chúng ta có được đều được in vào giai đoạn này. Tuy nhiên,do việc in ấn phức tạp, hơn nữa triều đình lại phong toả nghiêm ngặt (ví dụ, năm 1718 Trịnh Cương cấm nhân dân chứa các ván in sách và sách in) nên nghề in của nước ta kém phát triển. Do vậy mà lượng sách Hán Nôm được lưu hành chưa đầy 30% mà chủ yếu ở tầng lớp quan lại, học trò, thầy đồ - một bộ phận rất nhỏ trong xã hội Việt truyền thống. Còn 70% số sách còn lại là chép tay của ai người nấy giữ. Số liệu trên không nói ai cũng rõ, tỷ lệ người biết chữ trong xã hội phong kiến rất ít và trong số ít của ít đó ai có điều kiện đọc được 30% số sách lưu hành kia?
Cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, Ngành in Châu Âu cũng được du nhập vào Việt Nam, khai tử nghề in, nghề làm giấy cổ truyền. Và để cai trị được bền vững, thực dân Pháp ra sức áp dụng chính sách ngu dân. Trường học chỉ dành cho một số nhỏ con cái Pháp kiều và những người trung thành với chế độ. Việt ngữ bị giới hạn, Pháp ngữ được dùng làm ngôn ngữ chính thống trong chương trình giảng dạy. Người đi học thời kỳ này thường nhằm vào mục đích làm việc cho Pháp để vinh thân phì gia.
Đạo học ngày nay đã hỏng rồi
Mười người đi học, chín người thôi
Cô hàng bán sách lim dim ngủ
Dông dài, lang thang trong lịch sử tôi chỉ muốn nhìn thấy cái nguyên nhân bắt rễ từ truyền thống hiếu học chứ không hiếu đọc của nhân dân chúng ta, để có một giải pháp mang tính chiều sâu gây dựng nhu cầu đọc, nâng cao dân trí của người Việt.